Chào mừng

Xin cám ơn quý vị đã ghé thăm trang xumietvuon.blogspot.com

Trang

Thứ Năm, 5 tháng 4, 2012

Người “mở cửa” cây trái miệt vườn

TT - Ông tiến sĩ sau khi du học “hết trơn sách vở thiên hạ” nay lại trở về xoay quanh việc nghiên cứu ruồi.
Và từ đàn ruồi ấy, anh cho ra những công thức trồng trọt, bón phân, chăm sóc cây ăn quả để “bà con mình yên tâm đem trái cây ra chợ quốc tế bán bán buôn buôn”. Nguyễn Văn Hòa lớn lên từ đồng ruộng, anh hiểu người nông dân cần gì...
Từ con ruồi tới cái... toa lét
Thời gian này, lần đầu tiên những người nông dân ở thôn Đằng Thành (Mương Mán, Hàm Thuận Nam, Bình Thuận) được nghe nói tới một thứ tiêu chuẩn châu Âu mang tên GAP dành riêng cho trái nhập khẩu vào những nước này. Họ chưng hửng khi thấy có nhiều điều lạ quá so với những gì phải làm khi xuất khẩu trái cây qua Hong Kong, Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan...
Những người nông dân này không hề biết câu chuyện chỉ một cái trứng ruồi trên trái xoài xuất khẩu qua một nước thứ ba cũng có thể là cửa ngõ xuất hiện một loài côn trùng lạ đưa đến việc “cấm cửa” vĩnh viễn các loài trái cây của một quốc gia.
Ngoài cái trứng ruồi, còn hàng trăm thứ hiểm họa tiềm ẩn từ tập quán trồng trọt, thu hoạch... lâu đời và lạc hậu của người làm vườn. Nó có thể nằm đâu đó trong đống phân chuồng xử lý chưa đến nơi đến chốn hay trong một hành vi tự phát tùy tiện: thấy có sâu thì cứ phun vãi thuốc trừ sâu độc hại bất kể trái đã tới ngày thu hoạch.
Những người nông dân Đằng Thành được khuyến cáo rằng nếu vườn thanh long của cả thôn này muốn xuất khẩu sang châu Âu thì mọi người phải chấp nhận một qui trình sản xuất hoàn toàn khép kín từ khâu đầu đến khâu cuối cùng.
Phải thay đổi toàn bộ quá trình xử lý phân chuồng, vệ sinh thực phẩm, hạn chế dùng thuốc trừ sâu bằng việc áp dụng phương pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp... Tất cả các khâu phải được cộng đồng theo dõi chặt chẽ và qui trình này sẽ được các chuyên gia thuê từ nước ngoài giám sát. Việc thành bại sẽ phụ thuộc những yếu tố đôi khi rất nhỏ. Chỉ cần một chuyên gia vờ như vô tình hỏi nhỏ: “Đi toa lét chỗ nào?”. Nông dân mà đưa họ cái cuốc biểu cầm ra sau vườn thì cầm chắc mô hình bị phá sản bởi thiếu cái nhà... vệ sinh.
“Thôi, khó quá, mà tại sao mình phải làm?”. Bà con hỏi Hòa như vậy và anh phải bắt đầu từ những điều cơ bản nhất. Rằng mai mốt cây trái trong vườn mình sẽ đi ra thế giới lớn hơn, bán được cao giá gấp nhiều lần.
“Nhưng ở đó người ta sẽ đòi hỏi nó phải sạch tới từng centimet vuông ở ngoài vỏ trái. Không như bây giờ mình xuất cái gì qua Trung Quốc cũng được, xuất nhiều họ lấy nhiều rồi, tới ngày họ không thích lấy nữa, trái cây đem đổ ngoài đường. Người châu Âu khó tính nhhưng nếu tạo được uy tín, trái cây mình “ăn chắc mặc bền” và giá cao hơn là cái chắc...”.
Và anh vạch ra ngay cái tương lai đáng sợ: “Mai mốt gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, Nhà nước mình phải mở cửa cho trái cây xứ khác đổ về, nó ngon hơn, sạch hơn thì bà con có nước khoanh tay chịu chết mà thôi. Giờ mình xúm vô, mỗi người coi sóc cho nhau, vườn này nhắc nhở vườn nọ phải theo GAP thì mới hổng bị muộn màng...”.
Tiến sĩ Nguyễn Văn Hòa nói với họ mà cũng là nói với chính mình. Đây là mô hình “Hợp tác xã thanh long sạch” lần đầu tiên được hình thành ở Bình Thuận. Khác với các HTX khác, mô hình này tuân thủ theo tiêu chuẩn GAP của châu Âu từ khâu chọn giống, qui trình chăm bón, tiêu chuẩn dinh dưỡng... và sẽ được các chuyên gia nước ngoài giám sát trước khi “đóng dấu xác nhận đạt chuẩn”. HTX thanh long này sẽ là một chuẩn mực phải thành công trước 2010 để nhân rộng ra sau đó, bởi chậm một tí miệt vườn sẽ “thúc thủ”, nói theo ngôn ngữ giới trẻ bây giờ “chết là chắc rồi!”.
Trong một phòng thí nghiệm của Viện Nghiên cứu cây ăn quả miền Nam có hai đàn ruồi được các chuyên gia từ New Zealand sang nuôi. Nhiệm vụ của chúng là đẻ trứng vào những trái xoài để các nhà khoa học nghiên cứu cách tiêu diệt ấu trùng và mở đường cho trái cây miền Nam xuất khẩu sang những thị trường khó tính nhất trên thế giới.
Đó là một trong nhiều dự án mà tiến sĩ Nguyễn Văn Hòa và đồng nghiệp đang thầm lặng thực hiện tại nơi này. Năm 2003, anh rời trung tâm nghiên cứu về nông nghiệp lớn nhất Nam Á (Viện Nghiên cứu nông nghiệp toàn Ấn) để trở về với công việc “hiện đại hóa” miệt vườn.
“Tôi hiểu nông dân cần gì”
Thời gian của Hòa bây giờ là buổi sáng có thể tới một điểm thuyết trình nào đó để giới thiệu cơ chế của sản phẩm sofri protein, một chế phẩm diệt ruồi đục trái mà những nhà khoa học của Viện Nghiên cứu cây ăn quả đã lao tâm khổ tứ làm ra được. Anh sẽ tới chỉ cho bà con coi hình dạng con ruồi đục trái, nói rõ qui trình sống của nó ra sao, tại sao mình chỉ xịt thuốc có chừng nửa mét vuông trong khu vườn thì cả đám ruồi phải bị tiêu diệt...
Rồi Hòa hướng dẫn nông dân làm thí điểm phun xịt trong vườn để tự họ rút kinh nghiệm và nhân rộng ra với nhau. Buổi trưa, anh có thể ôm máy điện thoại hàng tiếng đồng hồ chỉ để trả lời một nông dân về bệnh thán thư trên cây thanh long, bệnh “chổi rồng” trên cây nhãn...
Buổi tối, tiến sĩ Hòa lại ngồi trước ống kính truyền hình trực tiếp thông báo tình hình sâu bệnh, những diễn tiến thuận lợi, bất lợi của thời tiết, môi trường ảnh hưởng tới sâu bệnh hoặc từng loại sâu bệnh trong khu vườn nhà nông...
Cứ vậy, không biết từ lúc nào đã biến mất những e dè của hồi mới quảy giỏ từ New Delhi trở về, không biết mình sẽ thích nghi như thế nào với thời gian sáu năm đi học bên ngoài. Nhưng rồi công việc cứ cuốn lấy anh, anh thì cứ lao vào, tự dưng thấy nó trôi chảy lúc nào không biết nữa.
“Ba má tôi là nông dân ở vùng cam sành Tam Bình, Vĩnh Long. Tôi sinh ra, lớn lên trên mảnh ruộng vườn cây. Hồi đó tôi đi học sớm, 16 tuổi đã thi đại học. Năm học lớp 11, trong nhà một đứa cháu bị bệnh sốt xuất huyết nhưng ở vùng sâu nên không cứu kịp. Gửi gắm của ba má tôi là đi học ngành y làm bác sĩ giúp đỡ con cháu sau này. Năm đó thi vào ngành y không đủ điểm đậu nhưng tôi lại đủ điểm vào ngành nông nghiệp.
ĐH Cần Thơ gửi giấy triệu tập ngành trồng trọt. Tôi ngần ngừ. Người anh kế khuyên thôi thì đi học ngành gì cũng giúp đỡ quê mình được. Vậy là đi học. Ra trường, tôi xin ở lại Trung tâm Nghiên cứu phát triển hệ thống canh tác (do tiến sĩ Võ Tòng Xuân làm giám đốc). Bắt đầu sưu tập các giống lúa mùa, đậu... ở địa phương cho đến năm 1994 Trung tâm Nghiên cứu cây ăn quả được thành lập. Đó là một lĩnh vực hoàn toàn mới và tôi về đó chứ chưa hình dung rõ mình sẽ làm được gì” - Hòa thong thả kể về con đường của mình.
Cơ hội đến khi năm 1997 anh nhận được học bổng đi học thạc sĩ về bệnh hại cây trồng. Hai năm sau, Hòa đủ điểm để lại làm nghiên cứu sinh tiến sĩ và bảo vệ thành công đề tài tốt nghiệp về virus bệnh học - những thứ “hàng xa xỉ” rất cần cho vùng cây ăn trái quê nhà ở thời hội nhập.
Rất nhiều cái cần, nhiều cái thuộc chiều sâu nghiên cứu nhưng sự lựa chọn của thực tế lúc này là những nghiên cứu mang tính ứng dụng và chương trình đầu tiên mà Hòa cùng những đồng nghiệp mình làm là đưa ra những mô hình cho chương trình nghiên cứu phòng trừ dịch hại tổng hợp. Rồi những câu hỏi của người nông dân, những chương trình trực tiếp trên sóng phát thanh - truyền hình... Tất cả đang là những công việc hằng ngày của một tiến sĩ nghề cây ăn quả.
“Tôi từng là nông dân, lớn lên trên đồng ruộng. Tôi hiểu người nông dân cần gì. Những câu hỏi của họ là bắt buộc phải nhiệt tình trả lời, không có cách nào khác để anh thoái thác. Cái gì biết bảo biết, cái gì chưa biết bảo mình sẽ nghiên cứu lại.
Ở Ấn Độ, những nghiên cứu về nông nghiệp gần như đã hoàn chỉnh và tầm mức những nghiên cứu của họ sánh ngang với bất kỳ nước phát triển nào, nhưng hình như xã hội Ấn có những đặc thù khác khiến những nghiên cứu ấy chưa đi vào đời sống sâu lắm. Còn ở VN, những nghiên cứu sẽ mang tính ứng dụng thực tế nhiều hơn.
Tôi học ngành bệnh học với đề tài nghiên cứu sâu về virus trong bệnh học cây trồng nhưng cái học  đó khó thực hiện trong môi trường VN hiện tại. Trong khi chờ đợi thiết bị kỹ thuật, cách tốt nhất là lăn xả vô vườn ruộng thực hiện các đề tài về sâu bệnh, đến với người nông dân để nghe họ nói và chuẩn bị mọi tư thế, khi có một căn bệnh lạ ở một vùng trái cây đang độ chín hay ra hoa, mình có thể nhào tới nghiên cứu tại chỗ để hạn chế hậu quả thất thu cho miệt vườn... Vậy là sướng rồi”.
* * *
Hỏi nhờ một đường truyền gửi mail về cơ quan, tôi mới biết thêm một chi tiết: thì ra tại một viện nghiên cứu khoa học lớn như thế này, người ta vẫn chưa có đường truyền ADSL. Mà đâu chỉ có ADSL, hàng loạt “đường truyền” khác từ lương bổng cho tới đời sống, có quá nhiều thứ hoặc trì níu người ta xuống hoặc kéo người ta đi.
Thật ra trong nỗi lo “trở về” của Hòa có lởn vởn câu chuyện của những đồng nghiệp ở viện này viện nọ của đồng bằng đã về và lại ra đi. Ngay tại vị trí mà anh ngồi, trước khi về một tháng, có một đồng nghiệp đã bỏ trống trong sự hụt hẫng của viện trưởng Nguyễn Văn Châu.
Nhưng biết làm sao, mảnh vườn của thời đại toàn cầu và những người nông dân cần cù vẫn đang trông chờ vào những người như anh.
NGUYỄN VĂN TIẾN HÙNG

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét